Hà Nội
23°C / 22-25°C

SKSS/Tình dục vị thành niên và thanh niên VN: Thực trạng nhu cầu chưa được đáp ứng

Thứ tư, 14:15 07/12/2011 | Dân số và phát triển

Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO, 1999), vị thành niên là những người nằm trong khoảng tuổi 10-19, thanh niên trẻ là những người nằm trong khoảng tuổi từ 19-24.

Năm 2005, Việt Nam có 84,15 triệu dân thì số vị thành niên và thanh niên trẻ (VTN&TN) chiếm tới 31,5% (26,5 triệu người) (Tổng cục thống kê, 2006). Thực tế, thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay đang sống trong môi trường xã hội mới có nhiều cơ hội để phát triển song cũng có không ít nguy cơ và thách thức trong đó có nhiều nguy cơ về sức khỏe sinh sản/tình dục (SKSS/TD) như lây nhiễm HIV/AIDS và các BLTQĐTD; quan hệ tình dục sớm, không an toàn; mang thai ngoài ý muốn và nạo phá thai tiền hôn nhân... (Nguyễn Đình Cử, 2007). Chăm sóc SKSS VTN&TN toàn diện đã được xác định như là một mục tiêu ưu tiên trong chiến lược chăm sóc SKSS của nhà nước. Các nhu cầu về SKSS/TD của VTN&TN đã dần được xác định thông qua các nghiên cứu, đánh giá. Một số các can thiệp nhằm cải thiện SKSS/TD cho VTN&TN đã được triển khai ở nhiều địa phương. Tuy nhiên, mức độ đáp ứng các nhu cầu về SKSS/TD VTN&TN của xã hội nói chung còn nhiều hạn chế. Bài viết này tổng quan lại các nhu cầu về SKSS/TD VTN chưa được đáp ứng ở tất cả các góc độ như môi trường chính sách, sự ủng hộ của cộng đồng, việc cung cấp thông tin và các dịch vụ SKSS/TD cho VTN&TN.
 
1. Khả năng tiếp cận các thông tin SKSS/TD của VTN&TN
 
Phương tiện thông tin đại chúng (tivi, đài, báo, tạp chí, sách…) hiện được đánh giá là nguồn cung cấp thông tin chủ đạo, trên diện rộng. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, thông tin về SKSS/TD VTN đã được cung cấp tới VTN&TN thông qua nhiều chương trình và với nhiều hình thức như: chương trình cung cấp kiến thức, chương trình tư vấn về các vấn đề SKSS/TD VTN, chương trình nghệ thuật (phim, kịch, ca múa nhạc), chương trình giới thiệu các hoạt động giao lưu (tương tác, thi giao lưu…). Theo Điều tra quốc gia về VTN&TN Việt Nam (SAVY – Bộ Y tế, 2005), 93,4% VTN&TN cho biết đã nhận được các thông tin về SKSS/TD qua các phương tiện truyền thông địa chúng. Tuy nhiên, thông tin về SKSS/TD được chuyển tải qua kênh này không chuyên sâu.
 
Trong nhà trường, giáo dục SKSS/TD VTN được yêu cầu lồng ghép vào các môn học chính khóa là Sinh học, Địa lý, Giáo dục công dân, Ngữ văn từ 6-7 năm nay. Tuy nhiên, việc thực hiện không mang tính chất bắt buộc, nó tuỳ thuộc vào thời lượng dư của mỗi môn học. Thực tế, chương trình bắt buộc phải thực hiện đối với các môn học ở trường phổ thông hiện đang quá tải. Khả năng lồng ghép giáo dục SKSS/TD VTN rất khó khăn. Thêm vào đó, việc triển khai giáo dục lồng ghép SKSS/TD VTN trong nhà trường còn gặp nhiều rào cản khác như năng lực của đội ngũ giáo viên trong giáo dục SKSS/TD VTN còn hạn chế; giáo viên, các bậc phụ huynh, cộng đồng không ủng hộ giảng dạy các nội dung SKSS/TD VTN. Giáo dục SKSS/TD VTN thông qua các hình thức ngoại khóa là hình thức hữu ích nhưng chỉ mới đang thử nghiệm, dự kiến triển khai từ năm học 2007-2008 (ISDS, 2006). Trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề hoàn toàn không có chương trình giáo dục SKSS/TD VTN ngoại trừ khối trường sư phạm với yêu cầu đào tạo giáo viên phục vụ giáo dục SKSS/TD VTN. Song cũng chỉ riêng tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1 là có môn học bắt buộc về nội dung này cho giáo sinh của bốn khoa, còn các trường sư phạm khác cũng chỉ giảng dạy lồng ghép (IPSS, 2007).
 
Mức độ tiếp cận của VTN&TN với các nhà chuyên môn như nhân viên y tế, các nhà tư vấn về SKSS/TD VTN hiện rất thấp. Ngay tại các điểm (22 xã/phường) đã triển khai chương trình can thiệp Sáng kiến SKSS thanh thiếu niên châu á (RHIYA VN), mới chỉ có khoảng 30% VTN&TN đã tiếp cận được với các nhà tư vấn và nhận được tư vấn về các nội dung SKSS/TD (IPSS, 2007).
 
Khả năng tiếp cận thông tin về SKSS/TD của VTN&TN qua các cuộc họp cộng đồng cũng hạn chế (36% VTN/TN tại các xã/phường có chương trình RHIYA cho biết đã tiếp cận được thông tin về SKSS qua nguồn này). Một số các hoạt động khác như thành lập câu lạc bộ "mẹ và con gái" và "bố và con trai" để tuyên truyền, cung cấp kiến thức về SKSS/TD cho cả VTN&TN và các bậc phụ huynh đã được triển khai ở một số tỉnh, thành phố (Hà Nội, Hòa Bình, Phú Thọ, Tiền Giang...) song chất lượng hoạt động của các câu lạc bộ này chưa cao, mới chỉ mang tính phong trào chưa đi vào chiều sâu (IPSS, 2006).
 
VTN&TN thôi học, đi làm sớm, VTN&TN di cư ít có cơ hội tiếp cận với các thông tin về SKSS/TD vì họ hầu như không tham gia các sinh hoạt cộng đồng, các hoạt động của các tổ chức, đoàn thể địa phương và không có điều kiện vật chất (tivi, radio…) để tiếp cận với thông tin đại chúng. VTN&TN người dân tộc thiểu số sống ở các vùng sâu, xa, cơ sở hạ tầng kém phát triển rất khó khăn trong tiếp cận thông tin SKSS/TD VTN (IPSS, 2006).
 
2. Khả năng tiếp cận và chất lượng dịch vụ, các phương tiện tránh thai
 
Trong việc cung cấp các dịch vụ SKSS, các dịch vụ xét nghiệm, khám và điều trị về các bệnh LTQĐTD, bệnh phụ khoa và HIV/AIDS chủ yếu tập trung ở các cơ sở y tế tuyến tỉnh trở lên. Các cơ sở y tế ở tuyến huyện chỉ cung cấp một số dịch vụ liên quan đến bệnh LTQĐTD, nạo phá thai an toàn. Trạm y tế tuyến xã chưa đủ điều kiện cung cấp đầy đủ các dịch SKSS. Hệ thống y tế nhà nước chưa có được các cơ sở cung cấp dịch vụ dành riêng cho VTN&TN. Một số can thiệp SKSS/TD VTN do các tổ chức UNFPA, WHO, Pathfinder, KFW... tài trợ, đã thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ SKSS/TD dành riêng cho VTN&TN. Tuy nhiên, những cơ sở này còn ít được VTN&TN biết đến do thiếu tuyên truyền, quảng bá rộng rãi trong cộng đồng (IPSS, 2007).
 
Trong cộng đồng, các cặp vợ chồng có thể dễ dàng nhận miễn phí, mua với giá tiếp thị xã hội BCS, viên uống tránh thai từ nhiều nguồn khác nhau (ngành dân số, hội phụ nữ, hội KHHGĐ, trạm y tế xã/phường, thị trường tự do…). Tuy nhiên, VTN&TN lại không dễ dàng để có thể tiếp cận với các nguồn cung cấp bao cao su và viên uống tránh thai từ các nguồn này. Đối với một số xã/phường đã có các can thiệp SKSS/TD VTN, VTN&TN có thể nhận BCS và viên uống tránh thai tại các góc thân thiện hoặc trung tâm thanh niên. Do những rào cản về mặt tâm lý và từ cộng đồng, số VTN&TN đến tiếp nhận BCS và viên uống tránh thai tại các cơ sở trên còn hạn chế (IPSS, 2007).
 
Đối với tuyến trung ương và tỉnh (bệnh viện sản, trung tâm sức khỏe sinh sản tỉnh/thành phố), chất lượng kỹ thuật của các dịch vụ được cung cấp đã được đảm bảo theo đúng chuẩn quốc gia song thiếu tính thân thiện, tính bảo mật. Hoạt động tư vấn đi kèm với cung cấp dịch vụ còn ít. Đối với tuyến huyện, chất lượng của các dịch vụ được cung cấp ở hơn 20% số quận/huyện còn chưa đạt chuẩn quốc gia. Dịch vụ được cung cấp ở các cơ sở y tế xã/phường phần lớn chưa đảm bảo chất lượng (chỉ 16,7% số trung tâm y tế xã/phường đạt tiêu chuẩn chăm sóc sản khoa thiết yếu cơ bản). Nguyên nhân của tình trạng trên là do năng lực chuyên môn về SKSS/TD VTN của cán bộ y tế tuyến xã/phường còn thấp. Ngay cả ở tuyến huyện, nhiều cán bộ y tế chưa có năng lực tư vấn về SKSS/TD VTN, xét cả về góc độ kiến thức, kỹ năng giao tiếp, tư vấn cho VTN&TN (CARE, 2004, UNFPA, 2007).
 
Đối với các dịch vụ do tư nhân cung cấp, chất lượng dịch vụ còn chưa được kiểm định do thiếu hệ thống kiểm tra, giám sát, đánh giá từ phía các cơ quan quản lý nhà nước. Các góc dịch vụ thân thiện dành cho VTN&TN được xây dựng từ một số các chương trình, dự án viện trợ[1] đã cung cấp dịch vụ chất lượng tốt, đảm bảo thái độ thân thiện, tính bảo mật, đa phần VTN&TN được lựa chọn nhân viên tư vấn là nam hay nữ phù hợp nguyện vọng của họ (Lưu Bích Ngọc và cộng sự, 2007).
 
3. Nhận thức và các năng lực của cộng đồng
 
Mặc dù đang có những chuyển biến trong thái độ ủng hộ đối với các chương trình, can thiệp SKSS/TD VTN song nhiều lãnh đạo cấp xã/phường chưa nhận thức rõ về vấn đề này cũng như tầm quan trọng, mức độ cần thiết của các chương trình SKSS/TD VTN. Một số khảo sát gần đây tại các địa phương đã từng triển khai can thiệp SKSS/TD VTN cho thấy, lãnh đạo xã/phường thường chỉ ủng hộ việc cung cấp thông tin liên quan đến SKSS/TD, chứ không ủng hộ việc cung cấp dịch vụ, kể cả việc cung cấp BCS và các biện pháp tránh thai khác. Đặc biệt hơn, họ không ủng hộ quyền được bảo mật thông tin khi sử dụng dịch vụ của VTN&TN (IPSS, 2006).
 
Đối với các giáo viên, nhiều thầy,cô giáo hiện còn thiếu hiểu biết về các quyền SKSS/TD VTN. Họ cho rằng các quyền SKSS/TD VTN chỉ là "quyền được hiểu biết về quan hệ tình dục, các BPTT, luật hôn nhân, gia đình và thực hành theo đúng luật pháp" (CARE, 2004). Nhiều giáo viên, thậm chí cả giảng viên một số trường đại học sư phạm chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc cung cấp thông tin và dịch vụ SKSS/TD VTN (IPSS, 2006; IPSS, 2007).
 
Nhận thức của các bậc cha mẹ và những thành viên khác trong cộng đồng về SKSS/TD VTN còn thấp. Nhiều người hiểu SKSS đơn giản là "đẻ đúng tuổi và KHHGĐ" (CARE, 2004). Đây chính là nguyên nhân khiến họ không ủng hộ các chương trình, can thiệp SKSS/TD VTN. Tại một số điểm đã triển khai các can thiệp SKSS/TD VTN, hiện các bậc cha mẹ cũng chỉ chấp nhận việc cung cấp thông tin về SKSS/TD VTN mà không ủng hộ việc cung cấp dịch vụ, nhất là dịch vụ tránh thai (IPSS, 2006).
 
Thực tế, năng lực của cộng đồng trong việc đáp ứng các nhu cầu SKSS/TD VTN còn hạn chế. Sự ủng hộ, mức độ cam kết đặc biệt là cam kết tài chính từ phía lãnh đạo cộng đồng chưa cao (ví dụ, tại 22 xã/phường ở 7 tỉnh có chương trình RHIYA, không một địa phương nào cam kết hỗ trợ được tài chính cho duy trì các góc dịch vụ thân thiện đã được xây dựng). Thực tế, nguồn lực tài chính của xã/phường hiện được sử dụng cho rất nhiều các hoạt động tại địa phương nhưng không có nguồn riêng dành cho hoạt động chăm sóc SKSS/TD VTN (IPSS, 2006).
 
Năng lực của các tổ chức đoàn thể ở cấp xã/ phường trong thực hiện các can thiệp chăm sóc SKSS/TD VTN&TN còn yếu kém. Ảnh hưởng và khả năng thu hút VTN&TN tham gia vào các hoạt động của Đoàn thanh niên xã/phường chưa tốt do Đoàn thanh niên thường chỉ hoạt động mạnh trong trường học; cơ chế thị trường, nhu cầu tìm kiếm việc làm, cải thiện đời sống đã cuốn hút thanh niên vào các hoạt động kinh tế, di cư tạm thời từ nông thôn ra đô thị; quan trọng nữa là nhiều cán bộ Đoàn ở nông thôn thiếu khả năng tổ chức các hoạt động và đặc biệt là thiếu kiến thức về SKSS/TD VTN. Hoạt động của hội phụ nữ xã/phường còn mang tính chất phong trào, hướng chủ đạo vào đối tượng phụ nữ 15-49 tuổi đã xây dựng gia đình. Các tổ chức đoàn thể khác như Hội cựu chiến binh, Hội nông dân, Hội người cao tuổi… chưa quan tâm đến vấn đề SKSS/TD VTN. Mức độ đáp ứng với các can thiệp SKSS/TD VTN của ban văn hóa, thông tin xã/phường hiện bị hạn chế bởi thiếu trang thiết bị truyền thông cũng như kiến thức và kỹ năng truyên truyền về SKSS/TD VTN. (Lưu Bích Ngọc, Nguyễn Thị Thiềng, 2007).
 
4. Môi trường chính sách và các khoảng trống
 
Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống các văn bản chính sách thuận lợi cho việc triển khai các can thiệp nhằm đáp ứng nhu cầu SKSS/TD VTN. Tuy không có một văn bản Chiến lược quốc gia, song SKSS/TD VTN đã được đề cập trong các văn bản pháp lý quan trọng nhất (luật, pháp lệnh, chiến lược) về chăm sóc SKSS hoặc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho VTN&TN như Luật Thanh Niên, Pháp lệnh Dân số, Chiến lược quốc gia về chăm sóc SKSS giai đoạn 2001-2010, Chiến lược Dân số giai đoạn 2001-2010, Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020. Nhằm cụ thể hóa các chính sách vĩ mô, các kế hoạch tổng thể, chương trình hành động liên quan đến chăm sóc sức khỏe và SKSS cho VTN&TN đã được các Bộ và cơ quan chức năng đưa ra như: “Kế hoạch tổng thể Quốc gia về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe vị thành niên và thanh niên Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 và định hướng 2020” (Bộ Y tế, 2006), “Chương trình hành động chăm sóc sức khỏe sinh sản cho vị thành niên, thanh niên năm 2006-2010” (Đoàn thanh niên CS Hồ Chí Minh, 2007), “Kế hoạch tổng thể giáo dục HIV và sức khỏe sinh sản trong nhà trường” (Bộ Giáo dục - Đào tạo, 2007). Trong các văn bản trên, đối tượng can thiệp chính là VTN&TN từ 10-24 tuổi, ở cả nông thôn và thành thị, cả trong nhà trường và ngoài nhà trường.
 
Tuy nhiên, giữa việc ban hành các chính sách nêu trên và hiện thực hóa, triển khai các chính sách đó trong cộng đồng vẫn tồn tạo một khoảng trống lớn. Sau khi chính sách về SKSS/TD VTN được ban hành, các can thiệp nhằm tạo môi trường hỗ trợ chưa được chú trọng. Thiếu các hội nghị định hướng nhằm nâng cao nhận thức và huy động sự ủng hộ của lãnh đạo Đảng và chính quyền cơ sở. Nhiều văn bản chính sách chưa làm nổi bật những đặc điểm của VTN&TN; chưa phân định rõ trách nhiệm của các bộ, ngành trong công tác chăm sóc SKSS cho thanh thiếu niên; chưa kết hợp giải quyết tốt vấn đề SKSS/TD VTN với các vấn đề xã hội khác như tạo cơ hội học tập, việc làm… cho VTN&TN. Vấn đề khó khăn nhất hiện nay là thiếu ngân sách và các nguồn lực để hiện thực hóa các chính sách đã ban hành. Khi triển khai các chương trình, can thiệp, còn thiếu sự tham gia của VTN&TN ở tất cả các khâu. Sự phối hợp liên ngành trong các chương trình SKSS/TD VTN thiếu tính liên tục và chặt chẽ. Thiếu sự lồng ghép giữa các chương trình SKSS/TD VTN với các chương trình phát triển năng lực toàn diện cho VTN&TN.
 
Tóm lại, những phân tích trên đây cho thấy nhu cầu về SKSS/TD của VTN&TN chưa được đáp ứng còn tồn tại trong mọi lĩnh vực từ môi trường chính sách, thái độ ủng hộ, năng lực của cộng đồng đến việc cung cấp thông tin, dịch vụ SKSS/TD cho VTN&TN. Việc thực hiện các can thiệp về tuyên truyền, vận động, truyền thông thay đổi hành vi, cung cấp dịch vụ SKSS/TD cho VTN&TN cần luôn phải căn cứ vào những nhu cầu đặc thù của mỗi nhóm VTN&TN khác nhau cũng như bám sát các nhu cầu chưa được đáp ứng nêu trên để tránh sự trùng lặp, lãng phí, không hiệu quả cũng như hướng tới thực hiện mục tiêu chăm sóc SKSS/TD toàn diện cho VTN&TN Việt Nam.
 
Theo Tạp chí Dân số & Phát triển (số 9/2007), website Tổng cục Dân số & KHHGĐ
kimngan
Bình luận
Xem thêm bình luận
Ý kiến của bạn
3 giai đoạn của bệnh nhân sa sút trí tuệ người thân cần biết để chăm sóc

3 giai đoạn của bệnh nhân sa sút trí tuệ người thân cần biết để chăm sóc

Dân số và phát triển - 7 giờ trước

Sa sút trí tuệ là khi bạn dần mất đi các chức năng thần kinh do các bệnh ảnh hưởng tới não bộ. Chứng bệnh này sẽ phát triển theo 3 giai đoạn tệ dần.

Các thuốc điều trị nhiễm độc thai nghén

Các thuốc điều trị nhiễm độc thai nghén

Dân số và phát triển - 1 ngày trước

Nhiễm độc thai nghén có thể xuất hiện vào 3 tháng đầu hoặc 3 tháng cuối của thai kỳ. Nếu không được điều trị, nhiễm độc thai nghén có thể dẫn tới sảy thai, sinh non, sản giật. Những đứa trẻ được sinh ra từ người mẹ bị nhiễm độc thai nghén thường nhẹ cân, chậm phát triển so với tuổi thai và suy thai.

Thuốc điều trị bệnh lậu

Thuốc điều trị bệnh lậu

Dân số và phát triển - 2 ngày trước

Bệnh lậu có thể điều trị được bằng thuốc kháng sinh. Tuy nhiên hiện nay, tình trạng lậu kháng thuốc ngày càng tăng. Do đó cần điều trị theo kháng sinh đồ. Sau khi hết đợt điều trị mà vẫn còn triệu chứng, bệnh nên đến gặp bác sĩ.

Nắng nóng mùa hè làm tăng những nguy cơ sức khỏe gì với mẹ bầu?

Nắng nóng mùa hè làm tăng những nguy cơ sức khỏe gì với mẹ bầu?

Dân số và phát triển - 4 ngày trước

Thời tiết mùa hè nóng bức ảnh hưởng nhiều đến phụ nữ mang thai. Quá nóng khi mang thai có thể gây nguy hiểm nghiêm trọng cho sức khỏe của mẹ bầu và thai nhi.

8 mẹo duy trì sức khỏe âm đạo trong mùa nóng

8 mẹo duy trì sức khỏe âm đạo trong mùa nóng

Dân số và phát triển - 5 ngày trước

Duy trì sức khỏe âm đạo là một phần không thể thiếu để có sức khỏe tổng thể và việc thích ứng với những thay đổi theo mùa có thể giúp ngăn ngừa các vấn đề tiềm ẩn.

Chế độ ăn cho người rối loạn nội tiết tố

Chế độ ăn cho người rối loạn nội tiết tố

Dân số và phát triển - 6 ngày trước

Nếu thường xuyên cảm thấy chướng bụng, nôn nao, mệt mỏi, dễ xúc động hoặc đang quá phụ thuộc vào caffeine hay đường, có thể là do rối loạn nội tiết tố. Tham khảo cách cải thiện bằng chế độ ăn uống.

Nỗ lực nâng cao chất lượng dân số vùng đồng bào dân tộc

Nỗ lực nâng cao chất lượng dân số vùng đồng bào dân tộc

Dân số và phát triển - 6 ngày trước

GĐXH - Ngành Y tế Quảng Bình đang tập trung triển khai các hoạt động nhằm cải thiện sức khỏe cho đồng bào, nâng cao thể trạng, tầm vóc người dân tộc thiểu số, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em...

Nam giới có cần vệ sinh vùng kín hàng ngày?

Nam giới có cần vệ sinh vùng kín hàng ngày?

Dân số và phát triển - 1 tuần trước

Việc vệ sinh vùng kín của nam giới hàng ngày là điều cần thiết. Nhưng vệ sinh vùng kín cho nam đúng cách thế nào không hẳn ai cũng biết.

Gửi tinh trùng vào ngân hàng chờ làm bố

Gửi tinh trùng vào ngân hàng chờ làm bố

Dân số và phát triển - 1 tuần trước

Nhiều người đàn ông sợ biến chứng quai bị hay phải điều trị ung thư đã gửi tinh trùng vào ngân hàng, để sau này vẫn có thể thụ tinh trong ống nghiệm để sinh con.

Nấm Candida gây bệnh gì, có nguy hiểm không?

Nấm Candida gây bệnh gì, có nguy hiểm không?

Dân số và phát triển - 1 tuần trước

Các bệnh do nhiễm nấm Candida tuy gây ra các triệu chứng khó chịu nhưng thường dễ điều trị và ít khi đe dọa tính mạng. Tuy nhiên, tình trạng sẽ nghiêm trọng khi nấm Candida xâm nhập vào máu gây nhiều biến chứng nguy hiểm.

Top