Hà Nội
23°C / 22-25°C

Bước ngoặt trong định hướng chính sách dân số

Chủ nhật, 08:00 25/12/2016 | Dân số và phát triển

GiadinhNet - Ngày 4/1/2016, Ban Bí thư Trung ương đã ban hành Kết luận số 119-KL/TW về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách Dân số-Kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ), trong đó xác định rõ: Trong giai đoạn tới Việt Nam phải chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang giải quyết toàn diện các vấn đề dân số theo định hướng giải quyết tốt quan hệ Dân số và Phát triển.

Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ


Mất cân bằng giới tính khi sinh - một trong những thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt trong thời gian gần đây. Ảnh: P.V

Mất cân bằng giới tính khi sinh - một trong những thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt trong thời gian gần đây. Ảnh: P.V

Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ tư, khóa VII đã ban hành Nghị quyết về chính sách DS-KHHGĐ. Với Nghị quyết này, lần đầu tiên Đảng ta có một văn bản hoàn chỉnh và khoa học về chính sách dân số. Nghị quyết xác định 5 quan điểm, nêu rõ vị trí quan trọng của công tác DS-KHHGĐ, 3 giải pháp chủ yếu để triển khai có kết quả công tác dân số, tập trung đầu tư ngân sách nhà nước, xây dựng bộ máy chuyên trách và huy động lực lượng toàn xã hội tham gia và khẳng định vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân số.

Hướng đến việc “thực hiện gia đình ít con, tạo điều kiện để mọi người dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc”, Nghị quyết đã đề ra mục tiêu cụ thể đạt mức sinh thay thế, “bình quân toàn xã hội, mỗi gia đình (cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ) có hai con vào năm 2015, tiến đến ổn định quy mô dân số vào giữa thế kỷ XXI”.

Nghị quyết cũng xác định hệ thống các giải pháp thực hiện hiệu quả công tác DS. Nhằm triển khai tốt việc thực hiện Nghị quyết của Đảng, Chính phủ đã phê duyệt các Chiến lược DS-KHHGĐ đến năm 2000, Chiến lược Dân số Việt Nam 2001-2010. Để đôn đốc sâu sát quá trình thực hiện Nghị quyết, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng như Chỉ thị 50/CT-TW ngày 05/3/1995 của Ban Bí thư TW, Nghị quyết 47-NQ/TW ngày 23/5/2005 của Bộ Chính trị và nhiều văn bản khác. Các giải pháp thực hiện chính sách DS-KHHGĐ được triển khai khẩn trương, đồng bộ. Trong đó phải nhấn mạnh đến các giải pháp có tính đột phá: Huy động toàn bộ hệ thống chính trị tham gia, xây dựng một bộ máy tổ chức đủ mạnh, tăng cường công tác tuyên truyền vận động kết hợp đồng bộ với việc đưa dịch vụ đến tận người dân, tăng đầu tư kinh phí đồng thời sử dụng cơ chế quản lý chương trình mục tiêu đảm bảo đưa kinh phí đến người được thụ hưởng.

Việc ban hành Nghị quyết TƯ 4, cùng với sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của các cấp ủy Đảng, chính quyền, việc triển khai đồng bộ, có kết quả các giải pháp đã huy động được toàn xã hội tham gia, tạo được chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, tổ chức thực hiện công tác DS-KHHGĐ trong hơn 20 năm qua và đã đạt được những kết quả hết sức quan trọng. Việc giảm nhanh mức sinh và tốc độ gia tăng quy mô dân số trong hơn 20 năm qua, giúp Việt Nam tránh sinh được gần hai mươi triệu người. Điều này đã góp phần hết sức to lớn vào thành tựu phát triển kinh tế- xã hội chung của đất nước, nâng cao chất lượng sống cho người dân.

Tận dụng cơ hội, chủ động vượt qua thách thức

Việc Việt Nam thực hiện thành công công tác dân số trong thời gian qua (đặc biệt là từ khi có Nghị quyết TƯ 4) thể hiện tập trung trong kết quả giảm sinh nhanh chóng, kiểm soát có kết quả tốc độ gia tăng quy mô dân số đã dẫn đến những chuyển đổi nhân khẩu học rất đáng kể. Những chuyển đổi đó tạo ra những cơ hội và thách thức mới, đòi hỏi chúng ta có sự chuyển đổi chính sách từ tập trung vào KHHGĐ sang giải quyết tốt mối quan hệ Dân số-Phát triển.

Kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy, khi mức sinh đã xuống thấp, do tác động của các yếu tố phát triển kinh tế - xã hội và đô thị hóa sẽ kéo mức sinh tiếp tục suy giảm. Một khi mức sinh đã xuống thấp thì muốn khôi phục, đưa mức sinh tăng lên còn khó khăn hơn. Hệ quả là dân số già tăng lên, suy giảm lực lượng lao động, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế- xã hội. Hiện tượng mức sinh thấp đi đôi với già hóa dân số, thiếu lao động, tác động không thuận đến phát triển kinh tế- xã hội được nhận thấy ở Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc, Singapore, Thái Lan... và nhiều nước khác.

Những bằng chứng và kinh nghiệm nêu trên là cơ sở thực tiễn cho việc Việt Nam cần chuyển đổi chính sách từ thực hiện mục tiêu giảm sinh sang duy trì mức sinh thay thế (TFR=2-2,1 con) nhằm giảm tốc độ già hóa dân số và suy giảm lực lượng lao động. Duy trì mức sinh thay thế cũng đòi hỏi tiếp tục thực hiện các chính sách giảm sinh ở khu vực có mức sinh cao, nâng dần mức sinh ở các khu vực mà mức sinh đã xuống thấp với các chính sách khuyến khích phù hợp.

Việt Nam đã chính thức bước vào quá trình già hóa dân số vào năm 2011 với 7% dân số trong độ tuổi từ 65 trở lên. Tương ứng số lượng khoảng 6,5 triệu người vào thời điểm hiện nay. Tốc độ già hóa của dân số nước ta rất nhanh. Các nước đã phát triển, không có chương trình KHHGĐ, phải trải qua vài chục năm, thậm chí hàng trăm năm để đi từ già hóa dân số sang dân số già. Dân số Việt Nam chỉ cần khoảng 15- 17 năm cho quá trình này và do đó, chúng ta sẽ đạt ngưỡng dân số già vào trước năm 2030. Lúc đó, nhóm dân số từ tuổi 65 khoảng 15 triệu người và tiếp tục tăng lên khoảng 24-25 triệu người vào năm 2049. Già hóa dân số tạo ra cơ hội cho việc phát huy kinh nghiệm phong phú của người cao tuổi, đồng thời cũng đặt ra các thách thức trong việc chăm sóc người cao tuổi và xây dựng một xã hội phù hợp với người cao tuổi.

Chúng ta chính thức bước vào giai đoạn có cơ cấu “dân số vàng” từ năm 2007, đạt đỉnh điểm về tỷ trọng vào khoảng 2017-2018, kéo dài khoảng 35 năm và chỉ xảy ra một lần duy nhất trong lịch sử chuyển đổi nhân khẩu học. Hiện tượng cơ cấu “dân số vàng” đưa đến cơ hội rất lớn cho phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng đặt ra những thách thức về nỗ lực tận dụng cơ hội này. Các nhà kinh tế học đã tính toán cho thấy các nước và vùng lãnh thổ ở Đông Á như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan…đã tận dụng tốt cơ hội do cơ hội “dân số vàng” mang lại, với tổng mức đóng góp 1/3 vào kết quả tăng trưởng kinh tế của các nước, vùng lãnh thổ này trong thời gian có cơ cấu “dân số vàng”, đưa họ trở thành các con Rồng châu Á. Những kinh nghiệm và bài học trên rất quý đối với một nước đi sau như chúng ta.

Ở nước ta, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh được ghi nhận từ những năm 2005-2006 khi mà tỷ số này ở mức 109 trẻ trai/100 trẻ em gái và tăng lên rất nhanh, đạt đến mức xấp xỉ 113/100 vào năm 2015. Mất cân bằng giới tính khi sinh dẫn đến tình trạng thừa nam, thiếu nữ ở độ tuổi trưởng thành. Hệ quả của tình trạng này là phá vỡ “thị trường hôn nhân” và kết cấu gia đình, gia tăng tình trạng mua bán phụ nữ và trẻ em gái, tác động tiêu cực đến trật tự an ninh.

Nếu xu hướng này tiếp tục diễn ra thì theo dự báo của Quỹ dân số Liên Hợp Quốc, đến giữa thế kỷ này, nước ta sẽ dư thừa từ 2,3 đến 4,3 triệu nam giới trong độ tuổi trưởng thành. Kiểm soát giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh, nhanh chóng đưa tỷ số này trở lại mức cân bằng tự nhiên bằng các biện pháp tổng hợp, đồng bộ và mạnh mẽ về truyền thông giáo dục, thực hiện bình đẳng giới; thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm vi phạm pháp luật về nghiêm cấm chẩn đoán và can thiệp lựa chọn giới tính thai nhi và giới tính khi sinh, cải thiện hệ thống an sinh xã hội cho người cao tuổi, nâng cao vị thế của phụ nữ là một trong những yêu cầu hết sức cấp bách đặt ra cho công tác dân số Việt Nam.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Ngoài các vấn đề như già hóa, mất cân bằng giới tính khi sinh...Việt Nam cũng đang đối mặt với tình trạng di dân. Đây là hiện tượng tất yếu, diễn ra theo quy luật “hút - đẩy”, không thể can thiệp có hiệu quả bằng các biện pháp hành chính. Di cư có tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế, nhất là ở nơi đến, tạo thu nhập cho người di cư và gia đình họ. Nhưng mặt khác, những người di cư thường khó tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản... Phát triển đồng đều giữa các khu vực, hoàn thiện hạ tầng giao thông và cơ sở hạ tầng thiết yếu, có chính sách ưu tiên thu hút đầu tư đối với khu vực kinh tế - xã hội kém phát triển hơn… là những thách thức cần được xem xét, thực hiện để chúng ta điều chỉnh các dòng di cư, phân bổ dân số hợp lý hơn.

Bên cạnh đó, chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ và tinh thần là yếu tố rất cần được quan tâm. Với nhiều chính sách và chương trình cụ thể được thực hiện, chất lượng dân số Việt Nam đã được nâng lên đáng kể. Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, đẩy mạnh phong trào rèn luyện thân thể, hình thành lối sống lành mạnh, loại trừ dần các hủ tục, đảm bảo vệ sinh môi trường và an toàn thực phẩm, nâng cao chất lượng giáo dục- đào tạo, xây dựng nền văn hóa mới tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc... là những giải pháp cần được triển khai đồng bộ và hiệu quả.

Chuyển đổi chính sách dân số từ việc điều chỉnh số lượng dân số sang chú trọng nâng cao chất lượng dân số; từ việc tập trung chủ yếu vào KHHGĐ, hướng đến mục tiêu giảm sinh sang giải quyết toàn diện các vấn đề dân số cả về quy mô, cơ cấu, phân bổ và nâng cao chất lượng dân số.., là những nhiệm vụ cấp bách mà ngành Dân số và các ban, ngành, cả cộng đồng cần chung tay...

Nguyễn Văn Tân (Phó Tổng cục trưởng Phụ trách Tổng cục DS - KHHGĐ, Bộ Y tế)

Bình luận
Xem thêm bình luận
Ý kiến của bạn
3 giai đoạn của bệnh nhân sa sút trí tuệ người thân cần biết để chăm sóc

3 giai đoạn của bệnh nhân sa sút trí tuệ người thân cần biết để chăm sóc

Dân số và phát triển - 19 giờ trước

Sa sút trí tuệ là khi bạn dần mất đi các chức năng thần kinh do các bệnh ảnh hưởng tới não bộ. Chứng bệnh này sẽ phát triển theo 3 giai đoạn tệ dần.

Các thuốc điều trị nhiễm độc thai nghén

Các thuốc điều trị nhiễm độc thai nghén

Dân số và phát triển - 1 ngày trước

Nhiễm độc thai nghén có thể xuất hiện vào 3 tháng đầu hoặc 3 tháng cuối của thai kỳ. Nếu không được điều trị, nhiễm độc thai nghén có thể dẫn tới sảy thai, sinh non, sản giật. Những đứa trẻ được sinh ra từ người mẹ bị nhiễm độc thai nghén thường nhẹ cân, chậm phát triển so với tuổi thai và suy thai.

Thuốc điều trị bệnh lậu

Thuốc điều trị bệnh lậu

Dân số và phát triển - 2 ngày trước

Bệnh lậu có thể điều trị được bằng thuốc kháng sinh. Tuy nhiên hiện nay, tình trạng lậu kháng thuốc ngày càng tăng. Do đó cần điều trị theo kháng sinh đồ. Sau khi hết đợt điều trị mà vẫn còn triệu chứng, bệnh nên đến gặp bác sĩ.

Nắng nóng mùa hè làm tăng những nguy cơ sức khỏe gì với mẹ bầu?

Nắng nóng mùa hè làm tăng những nguy cơ sức khỏe gì với mẹ bầu?

Dân số và phát triển - 4 ngày trước

Thời tiết mùa hè nóng bức ảnh hưởng nhiều đến phụ nữ mang thai. Quá nóng khi mang thai có thể gây nguy hiểm nghiêm trọng cho sức khỏe của mẹ bầu và thai nhi.

8 mẹo duy trì sức khỏe âm đạo trong mùa nóng

8 mẹo duy trì sức khỏe âm đạo trong mùa nóng

Dân số và phát triển - 5 ngày trước

Duy trì sức khỏe âm đạo là một phần không thể thiếu để có sức khỏe tổng thể và việc thích ứng với những thay đổi theo mùa có thể giúp ngăn ngừa các vấn đề tiềm ẩn.

Chế độ ăn cho người rối loạn nội tiết tố

Chế độ ăn cho người rối loạn nội tiết tố

Dân số và phát triển - 6 ngày trước

Nếu thường xuyên cảm thấy chướng bụng, nôn nao, mệt mỏi, dễ xúc động hoặc đang quá phụ thuộc vào caffeine hay đường, có thể là do rối loạn nội tiết tố. Tham khảo cách cải thiện bằng chế độ ăn uống.

Nỗ lực nâng cao chất lượng dân số vùng đồng bào dân tộc

Nỗ lực nâng cao chất lượng dân số vùng đồng bào dân tộc

Dân số và phát triển - 6 ngày trước

GĐXH - Ngành Y tế Quảng Bình đang tập trung triển khai các hoạt động nhằm cải thiện sức khỏe cho đồng bào, nâng cao thể trạng, tầm vóc người dân tộc thiểu số, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em...

Nam giới có cần vệ sinh vùng kín hàng ngày?

Nam giới có cần vệ sinh vùng kín hàng ngày?

Dân số và phát triển - 1 tuần trước

Việc vệ sinh vùng kín của nam giới hàng ngày là điều cần thiết. Nhưng vệ sinh vùng kín cho nam đúng cách thế nào không hẳn ai cũng biết.

Gửi tinh trùng vào ngân hàng chờ làm bố

Gửi tinh trùng vào ngân hàng chờ làm bố

Dân số và phát triển - 1 tuần trước

Nhiều người đàn ông sợ biến chứng quai bị hay phải điều trị ung thư đã gửi tinh trùng vào ngân hàng, để sau này vẫn có thể thụ tinh trong ống nghiệm để sinh con.

Nấm Candida gây bệnh gì, có nguy hiểm không?

Nấm Candida gây bệnh gì, có nguy hiểm không?

Dân số và phát triển - 1 tuần trước

Các bệnh do nhiễm nấm Candida tuy gây ra các triệu chứng khó chịu nhưng thường dễ điều trị và ít khi đe dọa tính mạng. Tuy nhiên, tình trạng sẽ nghiêm trọng khi nấm Candida xâm nhập vào máu gây nhiều biến chứng nguy hiểm.

Top