Hà Nội
23°C / 22-25°C

Mức sinh thấp - Tác động và kinh nghiệm các nước trên thế giới (II)

Thứ tư, 09:40 27/03/2013 | Dân số và phát triển

GiadinhNet - Để đạt được mức sinh thay thế đã khó nhưng duy trì được mức sinh thay thế, tránh rơi vào não trạng suy giảm mức sinh lại còn khó gấp bội.

 
Công việc khó bội phần

Tổng tỷ suất sinh trên thế giới hiện nay là 2,5 con, mức sinh còn cao tại nhiều quốc gia, vùng, đặc biệt là châu Phi. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ có mức sinh quá thấp dưới 1,3 con, thậm chí 0,9 con .

Để có cái nhìn đa chiều về mức sinh trên thế giới, đặc biệt là mức sinh thấp tại một số quốc gia và vùng lãnh thổ, bài viết dưới đây tiếp tục nhằm cung cấp thông tin tới bạn đọc về mức sinh hiện nay trên thế giới, các giai đoạn chuyển đổi nhân khẩu học và một số vấn đề liên quan đến mức sinh thấp.

Như đã đề cập ở kỳ trước, mức sinh thấp xuất hiện ở khắp nơi trên thế giới từ châu Phi (Mauritus với 1,5 con) đến Bắc Mỹ (Canada: 1,7 con) xuống các quốc đảo vùng Caribbean (Puerto Rico 1,6 và một loạt nước trong khoảng 1,7-1,8 con); Từ châu Á (với một loạt các nước vùng Đông Á, Đông Nam Á, Tây Á như Hàn Quốc (1,2), Singapore (1,2), Nhật Bản (1,4), Cyprus (1,6), Armenia (1,7)…) đến hàng loạt nước ở châu Âu (như Andorra (1,2) Latvia (1,3), Bosnia (1,3), San Marino (1,3)..).

Nỗi lo ngại của Châu Âu

Châu Âu cũng là nơi có nhiều quốc gia có mức sinh rất thấp. TFR năm 2011 của châu Âu là 1,6 con, nếu phân theo các khu vực thì thấp nhất là Nam Âu với 1,4 con, Đông Âu: 1,5 con và cao nhất là Bắc Âu: 1,9 con.
 
 
Mức sinh thấp - Tác động và kinh nghiệm các nước trên thế giới (II) 1

Theo Nhân dân nhật báo online (People’s Daily Online, 2011) thì khi TFR < 1,8 con là có vấn đề (về mức sinh và sự phát triển dân số); TFR <1,5 con: Có vấn đề nghiêm trọng; TFR < 1,35 con: Vấn đề trở lên cực kỳ nghiêm trọng. Các học giả phương Tây thì chia mức sinh thấp (TFR) thành các mức: 2,0-1,6 con; 1,6-1,3 con và mức 1,3 con trở xuống là mức thấp nhất.

Vào những năm cuối 1960 đầu 1970, châu Âu đã đạt mức sinh thay thế (2,1 con) nhưng sau đó, mức sinh này không được duy trì ổn định mà ngày càng xuống thấp. Ngay từ năm 1971, Đức là quốc gia đầu tiên ở châu Âu có TFR ≤ 2,0 và những năm ngay tiếp theo đó là hàng loạt nước như: Thuỵ Sỹ (1972), Đan Mạch, Netherlands, Austria (1973), United Kingdom (1974)…. Việc mức sinh ở mức trên, dưới (xung quanh) mức sinh thay thế cũng không có gì đáng bàn nếu như không có hiện tượng mức sinh ngày càng tụt dốc. Năm 1993, Tây Ban Nha và Italy là những quốc gia đầu tiên có mức sinh thấp nhất (TFR = 1,3 con). Đến năm 1995, có thêm Bulgaria, Cộng hoà Czech, Latvia và Slovenia tham gia nhóm nước có TFR thấp nhất. Sau đó 7 năm (2002), tình trạng này không những không được cải thiện mà còn trầm trọng thêm, châu Âu đã có tới 17 nước có mức sinh thấp nhất (TFR<=1,3) (Council of Europe, 2003), ngoài ra còn chưa kể những nước có TFR gần 1,3 như: Đức (1,31), Liên bang Nga (1,32), Croatia (1,34), Andorra (1,36), Estonia (1,37), Switzerland (1,40)…

Mức sinh thấp - Tác động và kinh nghiệm các nước trên thế giới (II) 2

Mặc dù là khu vực đạt được mức sinh thay thế sớm nhất thế giới (từ thập kỷ 1970) nhưng trải qua hơn 40 năm qua, mức sinh ở châu Âu ngày càng giảm và đến năm 2011 vẫn ở mức 1,6 con. Các đoàn hệ mới được sinh ra không đủ thay thế các đoàn hệ trước đã làm cho quy mô dân số của châu Âu ngày càng suy giảm.

Bảng 2: TFR các nước Châu Âu, 1980-2002
Mức sinh thấp - Tác động và kinh nghiệm các nước trên thế giới (II) 3

Những cải thiện đáng kể

Tuy nhiên, theo cơ sở dữ liệu của các nước phát triển (database of developed countries-INED) và “2011 the world population data sheet” thì mức sinh ở một số nước châu Âu đã được cải thiện đáng kể so với thời điểm thê thảm năm 2002. Với sự nỗ lực của chính phủ, một loạt chính sách khuyến sinh được ban hành đã làm cho mức sinh của các quốc gia này được phục hồi, tuy vẫn ở mức dưới 2,0 con. Trải qua 21 năm (1980-2011) dân số châu Âu tăng 48 triệu người (năm 2011 là 740 triệu), trung bình mỗi năm tăng gần 2,3 triệu người. 

Biểu 7: Dân số châu Âu, 1980-2010
Mức sinh thấp - Tác động và kinh nghiệm các nước trên thế giới (II) 4

Mặc dù mức sinh có dấu hiệu khả quan ở hầu khắp châu Âu nhưng do đã qua hơn 40 năm, mức sinh luôn ở mức thấp nên quy mô dân số vẫn giảm so với trước tại một số nước như: Bosnia-Herzegovina, Croatia, Bulgaria, Hungary và toàn bộ Tây Âu (trừ Nga). 

Mức sinh thấp - Tác động và kinh nghiệm các nước trên thế giới (II) 5

Theo dự báo của Population Reference Bureau thì đến năm 2050, dân số của châu Âu chỉ còn 725 triệu người, tức bằng hơn nửa dân số Trung Quốc hiện nay. Như vậy, cũng khoảng 40 năm nữa (2011-2050) thì quy mô dân số châu Âu không những không tăng mà lại giảm đi 15 triệu người. Rất nhiều quốc gia ở châu Âu tiếp tục bị suy giảm về quy mô dân số. Có thể nói rằng, hơn 40 năm qua, châu Âu đã vật vã vực dậy mức sinh thấp nhưng cho tới 40 năm sau (tổng số hơn 80 năm), quy mô dân số của Châu Âu vẫn tiếp tục bị thu hẹp. 

Mức sinh thấp - Tác động và kinh nghiệm các nước trên thế giới (II) 6

Chọn hai nước có mức suy giảm quy mô dân số nhiều nhất là Ukraine và ít nhất là Bosnia-Herzegovina (tính đến năm 2050) để xem 100 năm nữa (từ 2010-2100) quy mô dân số của những nước này ra sao. Điều đáng tiếc là theo dự báo của Liên hợp quốc (theo phương án trung bình-màu đỏ) thì trong khoảng 100 năm nữa, quy mô dân số của 2 nước này vẫn tiếp tục giảm, thậm chí là đến mức thê thảm so với năm 2050. 

Mức sinh thấp - Tác động và kinh nghiệm các nước trên thế giới (II) 7

Đông Á cùng chung cảnh ngộ

Cùng với châu Âu thì khu vực Đông Á cũng có TFR thuộc hàng thấp nhất thế giới (chỉ đứng sau Nam Âu) với 1,5 con. Tại khu vực này, Đài Loan hiện có TFR thấp nhất thế giới với 0,9 con. (Nếu không tính Mông Cổ, do chưa đạt mức sinh thay thế, thì TFR của khu vực này chỉ còn 1,31 và là khu vực có mức sinh thấp nhất thế giới) 

Mức sinh thấp - Tác động và kinh nghiệm các nước trên thế giới (II) 8

Nếu như châu Âu đạt được mức sinh thay thế vào những năm 1970 thì Đông Á phải chờ đến những năm cuối 1980 đầu 1990 (Bhakta Gubhaju, 2007) (Nhật Bản đạt mức sinh thay thế từ rất sớm vào những năm cuối 1950, đầu 1960- The emergence of very low fertility in Japan…, nhiều tác giả, 2006). Tuy nhiên, mức sinh sau đó đã giảm đi một cách nhanh chóng và vẫn chưa có dấu hiệu hồi phục. 

Mức sinh thấp - Tác động và kinh nghiệm các nước trên thế giới (II) 9
Mức sinh thấp - Tác động và kinh nghiệm các nước trên thế giới (II) 10
 
Cũng theo Population Reference Bureau, đến năm 2050, quy mô dân số của khu vực Đông Á (bao gồm cả Triều Tiên, Mông Cổ) giảm từ 1,581 triệu (2011) xuống còn 1,512 triệu (2050). Vị trí đứng đầu thế giới về quy mô dân số khổng lồ của Trung Quốc đã bị Ấn Độ soán ngôi. Hàn Quốc từ 49 triệu xuống còn 42,3 triệu, Đài Loan từ 23,2 triệu còn 20,9 triệu; Nhật Bản giảm nhiều nhất từ 128,1 triệu (2011) xuống còn 95,2 triệu (2050). Cũng theo dự báo của UN đến năm 2100 (phương án trung bình) thì quy mô dân số của Nhật Bản vẫn tiếp tục bị thu hẹp.
 

Có thể thấy rằng, để đạt được mức sinh thay thế đã khó nhưng duy trì được mức sinh thay thế, tránh rơi vào não trạng suy giảm mức sinh lại còn khó gấp bội. Gần nửa thế kỷ qua đi, châu Âu và một số quốc gia Đông Á vẫn đang ra sức khuyến sinh mà chưa đưa được kết quả như mong đợi: Mức sinh còn thấp và quy mô dân số tiếp tục ngày càng thu hẹp.

 
(còn tiếp )
Thạc sỹ Lương Quang Đảng
kimvan
Bình luận
Xem thêm bình luận
Ý kiến của bạn
3 giai đoạn của bệnh nhân sa sút trí tuệ người thân cần biết để chăm sóc

3 giai đoạn của bệnh nhân sa sút trí tuệ người thân cần biết để chăm sóc

Dân số và phát triển - 9 giờ trước

Sa sút trí tuệ là khi bạn dần mất đi các chức năng thần kinh do các bệnh ảnh hưởng tới não bộ. Chứng bệnh này sẽ phát triển theo 3 giai đoạn tệ dần.

Các thuốc điều trị nhiễm độc thai nghén

Các thuốc điều trị nhiễm độc thai nghén

Dân số và phát triển - 1 ngày trước

Nhiễm độc thai nghén có thể xuất hiện vào 3 tháng đầu hoặc 3 tháng cuối của thai kỳ. Nếu không được điều trị, nhiễm độc thai nghén có thể dẫn tới sảy thai, sinh non, sản giật. Những đứa trẻ được sinh ra từ người mẹ bị nhiễm độc thai nghén thường nhẹ cân, chậm phát triển so với tuổi thai và suy thai.

Thuốc điều trị bệnh lậu

Thuốc điều trị bệnh lậu

Dân số và phát triển - 2 ngày trước

Bệnh lậu có thể điều trị được bằng thuốc kháng sinh. Tuy nhiên hiện nay, tình trạng lậu kháng thuốc ngày càng tăng. Do đó cần điều trị theo kháng sinh đồ. Sau khi hết đợt điều trị mà vẫn còn triệu chứng, bệnh nên đến gặp bác sĩ.

Nắng nóng mùa hè làm tăng những nguy cơ sức khỏe gì với mẹ bầu?

Nắng nóng mùa hè làm tăng những nguy cơ sức khỏe gì với mẹ bầu?

Dân số và phát triển - 4 ngày trước

Thời tiết mùa hè nóng bức ảnh hưởng nhiều đến phụ nữ mang thai. Quá nóng khi mang thai có thể gây nguy hiểm nghiêm trọng cho sức khỏe của mẹ bầu và thai nhi.

8 mẹo duy trì sức khỏe âm đạo trong mùa nóng

8 mẹo duy trì sức khỏe âm đạo trong mùa nóng

Dân số và phát triển - 5 ngày trước

Duy trì sức khỏe âm đạo là một phần không thể thiếu để có sức khỏe tổng thể và việc thích ứng với những thay đổi theo mùa có thể giúp ngăn ngừa các vấn đề tiềm ẩn.

Chế độ ăn cho người rối loạn nội tiết tố

Chế độ ăn cho người rối loạn nội tiết tố

Dân số và phát triển - 6 ngày trước

Nếu thường xuyên cảm thấy chướng bụng, nôn nao, mệt mỏi, dễ xúc động hoặc đang quá phụ thuộc vào caffeine hay đường, có thể là do rối loạn nội tiết tố. Tham khảo cách cải thiện bằng chế độ ăn uống.

Nỗ lực nâng cao chất lượng dân số vùng đồng bào dân tộc

Nỗ lực nâng cao chất lượng dân số vùng đồng bào dân tộc

Dân số và phát triển - 6 ngày trước

GĐXH - Ngành Y tế Quảng Bình đang tập trung triển khai các hoạt động nhằm cải thiện sức khỏe cho đồng bào, nâng cao thể trạng, tầm vóc người dân tộc thiểu số, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em...

Nam giới có cần vệ sinh vùng kín hàng ngày?

Nam giới có cần vệ sinh vùng kín hàng ngày?

Dân số và phát triển - 1 tuần trước

Việc vệ sinh vùng kín của nam giới hàng ngày là điều cần thiết. Nhưng vệ sinh vùng kín cho nam đúng cách thế nào không hẳn ai cũng biết.

Gửi tinh trùng vào ngân hàng chờ làm bố

Gửi tinh trùng vào ngân hàng chờ làm bố

Dân số và phát triển - 1 tuần trước

Nhiều người đàn ông sợ biến chứng quai bị hay phải điều trị ung thư đã gửi tinh trùng vào ngân hàng, để sau này vẫn có thể thụ tinh trong ống nghiệm để sinh con.

Nấm Candida gây bệnh gì, có nguy hiểm không?

Nấm Candida gây bệnh gì, có nguy hiểm không?

Dân số và phát triển - 1 tuần trước

Các bệnh do nhiễm nấm Candida tuy gây ra các triệu chứng khó chịu nhưng thường dễ điều trị và ít khi đe dọa tính mạng. Tuy nhiên, tình trạng sẽ nghiêm trọng khi nấm Candida xâm nhập vào máu gây nhiều biến chứng nguy hiểm.

Top