Dân số Việt Nam sẽ đạt khoảng 104,5 triệu người vào năm 2029
GiadinhNet – Đây là thông tin được đưa ra tại Hội nghị công bố kết quả nghiên cứu chuyên sâu Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019 do Tổng cục Thống kê phối hợp với Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) tại Việt Nam tổ chức sáng nay (18/12) tại Hà Nội.
Trước đó, Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019 được tiến hành vào thời điểm 0h ngày 1/4/2019. Kết quả cuộc Tổng Điều tra này đã được công bố vào ngày 19/12/2019. Tiếp theo các kết quả này, Tổng cục Thống kê thực hiện nghiên cứu phân tích chuyên sâu một số chủ đề dân số gồm: Mức sinh, mất cân bằng giới tính khi sinh, di cư và đô thị hóa, già hóa dân số, đồng thời dự báo dân số Việt Nam giai đoạn 2019 – 2069.
Những phát hiện chính từ nghiên cứu này tiếp tục cung cấp bằng chứng về thực trạng, xu hướng, các nhân tố ảnh hưởng tới dân số và đề xuất những khuyến nghị nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững.
Thông tin tại Hội nghị cho thấy, trong vòng 10 năm qua, toàn quốc có 29 tỉnh ghi nhận mức sinh giảm và 33 tỉnh ghi nhận mức sinh tăng. Sóc Trăng là địa phương duy nhất có mức sinh không thay đổi. Ảnh: N.Mai
Riêng về vấn đề mức sinh, tại Hội nghị, bà Vũ Thị Thu Thủy, Vụ trưởng Vụ Thống kê Dân số và Lao động (Tổng cục Thống kê) cho biết: Trong vòng 30 năm qua, mức sinh của Việt Nam đã giảm gần một nửa. Tổng tỷ suất sinh (TFR) giảm từ 3,8 con/phụ nữ vào năm 1989 xuống còn 2,09 con/phụ nữ vào năm 2019.
Việt Nam vẫn duy trì mức sinh ổn định ở mức thay thế trong hơn một thập kỷ qua, xu hướng sinh hai con vẫn phổ biến. Kết quả này tiếp tục khẳng định, Việt Nam đã thực hiện thành công Chương trình DS-KHHGĐ đối với mục tiêu giảm sinh.
Hiện nay, mức sinh của khu vực nông thôn cao hơn của khu vực thành thị và cao hơn mức sinh thay thế, TFR tương ứng là 2,26 con/phụ nữ và 1,83 con/phụ nữ. Trung du và miền núi phía Bắc và Tây Nguyên là các vùng có mức sinh cao nhất cả nước với TFR mỗi vùng là 2,43 con/phụ nữ. Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long là hai vùng có mức sinh thấp nhất cả nước, TFR tương ứng là 1,56 con/phụ nữ và 1,8 con/phụ nữ.
Theo kết quả nghiên cứu chuyên sâu, năm 2019, trong số 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tỉnh Hà Tĩnh có mức sinh cao nhất (2,83 con/phụ nữ), cao hơn gấp 2 lần so với địa phương có mức sinh thấp nhất là TP Hồ Chí Minh (1,39 con/phụ nữ).
"Trong vòng 10 năm qua, toàn quốc có 29 tỉnh ghi nhận mức sinh giảm và 33 tỉnh ghi nhận mức sinh tăng. Sóc Trăng là địa phương duy nhất có mức sinh không thay đổi", bà Vũ Thị Thu Thủy thông tin.
Trong số các dân tộc có quy mô trên 1 triệu người (Kinh, Tày, Thái, Khmer, Mường, Mông, Nùng), dân tộc Mông có mức sinh cao nhất. Trải qua 3 thập kỷ, mức sinh của các dân tộc này đều giảm, trong đó, dân tộc Mông có mức sinh giảm nhiều nhất (năm 1989: 9,3 con/phụ nữ; năm 2009: 4,96 con/phụ nữ; năm 2019: 3,59 con/phụ nữ). Hiện nay, chênh lệch về mức sinh giữa các nhóm dân tộc đang có xu hướng thu hẹp dần.
Dự báo đến năm 2029, dân số Việt Nam đạt khoảng 104,5 triệu người. Trong 5 năm từ 2019 – 2024, tỷ lệ tăng dân số hàng năm của nước ta là 0,93%. Ảnh: TL
Năm 2019, phụ nữ di cư có mức sinh thấp hơn phụ nữ không di cư với TFR tương ứng là 1,54 con/phụ nữ so với 2,13 con/phụ nữ; phụ nữ có trình độ học vấn càng cao thì mức sinh càng thấp, TFR của nhóm phụ nữ có trình độ trên trung học phổ thông là thấp nhất (1,98 con/phụ nữ) và của nhóm có trình độ dưới tiểu học là cao nhất (2,35 con/phụ nữ); phụ nữ sống trong các hộ nghèo nhất có mức sinh cao nhất trong 5 năm nhóm mức sống (2,4 con/phụ nữ), phụ nữ sống trong các hộ giàu nhất có mức sinh thấp nhất (2 con/phụ nữ).
Kết quả cuộc Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019 cũng cho thấy, tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi của nhóm phụ nữ từ 10 – 19 tuổi (ASFR10) là 11 con/1000 phụ nữ. Trong đó, khu vực nông thôn cao hơn thành thị, tương ứng là 15 con/1000 phụ nữ và 5 con/1000 phụ nữ.
Trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên là 2 vùng có ASFR10 cao nhất, tương ứng là 28 con/1000 phụ nữ và 21 con/1000 phụ nữ. Trong số các dân tộc có quy mô dân số trên 1 triệu người, ASFR10 của dân tộc Mông cao nhất, 65 con/1000 phụ nữ, cao hơn khoảng 9 lần so với dân tộc Kinh và hơn 6 lần so với mức bình quân cả nước.
Liên quan đến vấn đề mức sinh của Việt Nam, tại Hội nghị, bà Naomi Kitahara, Trưởng Đại diện UNFPA cho biết: Kết quả cuộc Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019 khẳng định, tổng tỷ suất sinh của Việt Nam ổn định ở dưới mức sinh thay thế (2,09 con/phụ nữ). Điều này cho thấy sự xem xét kịp thời của Chính phủ Việt Nam trong việc chuyển hướng công tác dân số từ KHHGĐ sang Dân số và Phát triển theo Chương trình Nghị sự năm 2030 về Phát triển bền vững.
Từ những kết quả nghiên cứu chuyên sâu về mức sinh tại Việt Nam, bà Naomi Kitahara kêu gọi mọi người quan tâm đến tỷ suất sinh đặc trưng của nhóm nữ tuổi vị thành niên từ 10-19 tuổi với tỷ suất là 11 con/1000 phụ nữ. So với năm 2016, thì tỷ suất này thấp hơn (19 con/1000 phụ nữ). Năm 2016, tỷ suất sinh đặc trưng của nhóm tuổi vị thành niên của Việt Nam cao thứ 5 trong các quốc gia Đông Nam Á.
"Điều này cho thấy, cần phải tăng cường đầu tư để có thể đáp ứng nhu cầu về kế hoạch hóa gia đình và các biện pháp tránh thai hiện đại trong nhóm trẻ vị thành niên ở Việt Nam. Cần đặc biệt quan tâm đến chất lượng dịch vụ sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản cho thanh thiếu niên, đảm bảo các em được tiếp cận tới các dịch vụ này để đưa ra quyết định của mình", Trưởng Đại diện UNFPA tại Việt Nam nhấn mạnh.
Mai Thùy
Hai con sinh đôi không giống nhau, bố lập tức đi xét nghiệm ADN
Dân số và phát triển - 7 giờ trướcThấy con trai song sinh không giống nhau, anh Kiên đi xét nghiệm ADN, kết quả được chuyên gia đánh giá cực hiếm gặp.
Người yêu cũ mang con đến nhà, người đàn ông quyết đi xét nghiệm ADN: Kết quả được hé lộ
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcNgười đàn ông tên Dũng (*) đã quyết định đến Trung tâm Phân tích ADN và Công nghệ di truyền để xét nghiệm quan hệ huyết thống cùng đứa trẻ được người yêu cũ đặt trước cửa nhà anh.
Thói quen của hàng triệu nam giới Việt có hại cho chuyện sinh con
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcBên cạnh làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch hay ung thư, hút thuốc lá còn tác động tiêu cực lên khả năng sinh sản của nam giới và bộ gene của tinh trùng.
Bài tập xua tan nỗi lo mất ngủ, khó ngủ
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcMất ngủ, khó ngủ thường gây cảm giác khó chịu, lo lắng... ảnh hưởng tới năng suất lao động và học tập. Thực hiện một số bài tập hiệu quả dưới đây giúp bạn ngủ nhanh và thức dậy sảng khoái hơn.
Ung thư vú tiến triển như thế nào?
Dân số và phát triển - 4 ngày trướcCho dù đã được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú, việc tìm hiểu tất cả thông tin có sẵn có thể khiến người bệnh hiểu hơn. Dưới đây là tổng quan đơn giản về ung thư vú và các giai đoạn bệnh, phân tích về cách ung thư vú lây lan, chẩn đoán và điều trị.
Người phụ nữ ở Đồng Nai nặng 100kg mang thai bé 4,6kg, nhập viện với nhiều biến chứng nguy hiểm
Dân số và phát triển - 6 ngày trướcMột bệnh viện ở Đồng Nai đã tiếp nhận trường hợp đặc biệt của sản phụ 35 tuổi, nặng 100 ký, thai trên 38 tuần, em bé to, nặng 4,6kg.
Biện pháp điều trị nấm Candida âm đạo
Dân số và phát triển - 1 tuần trướcNấm Candida âm đạo gây kích ứng, ngứa dữ dội và tiết dịch nhiều ở âm đạo và âm hộ, bệnh rất dễ tái phát.
Phổ biến kiến thức về sàng lọc trước sinh, sơ sinh cho cán bộ y tế, dân số
Dân số và phát triển - 1 tuần trướcGĐXH - Ngày 20/3, ông Phan Nam Bình, Chi cục trưởng Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình tỉnh Quảng Bình cho biết, đơn vị vừa tổ chức hội nghị tập huấn về chương trình sàng lọc trước sinh, sơ sinh cho đội ngũ cán bộ y tế, dân số cơ sở tại huyện Lệ Thủy.
Bị dị tật tử cung đôi có sinh con được không?
Dân số và phát triển - 1 tuần trướcCác bác sĩ Bệnh viện Phụ sản Hà Nội đã phẫu thuật cho một bé gái có 2 buồng tử cung, 2 cổ tử cung. Đây là dị tật bẩm sinh cơ quan sinh dục hiếm gặp nhưng có ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng sinh sản của người phụ nữ.
Chi trăm triệu đồng sinh con đầu lòng
Dân số và phát triển - 1 tuần trướcChịu áp lực tài chính không nhỏ khi nuôi con tại thành phố lớn, nhiều gia đình tiết kiệm hơn trăm triệu đồng mới dám sinh con.
Biện pháp điều trị nấm Candida âm đạo
Dân số và phát triểnNấm Candida âm đạo gây kích ứng, ngứa dữ dội và tiết dịch nhiều ở âm đạo và âm hộ, bệnh rất dễ tái phát.