Hà Nội
23°C / 22-25°C

Mức sinh thế giới năm 2011 và các giai đoạn chuyển đổi nhân khẩu học: Những hệ lụy thấy trước

Thứ hai, 11:10 12/03/2012 | Nghiên cứu - Trao đổi

GiadinhNet - Khoảng cách về mức sinh giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển là rất lớn.

Tổng tỷ suất sinh trên thế giới hiện nay là 2,5 con, mức sinh còn cao tại nhiều quốc gia, vùng, đặc biệt là châu Phi. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ có mức sinh quá thấp dưới 1,3 con, thậm chí 0,9 con .
 
Để có cái nhìn đa chiều về mức sinh trên thế giới, đặc biệt là mức sinh thấp tại một số quốc gia và vùng lãnh thổ, bài viết dưới đây nhằm cung cấp thông tin tới bạn đọc về mức sinh hiện nay trên thế giới, các giai đoạn chuyển đổi nhân khẩu học và một số vấn đề liên quan đến mức sinh thấp.
 
Để đo lường mức sinh của một dân số, các nhà nhân khẩu học thường sử dụng các chỉ báo: Tỷ suất sinh thô (CBR-Crude Birth Rate), tỷ suất sinh chung (GFR-General Fertility Rate), tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi (ASFR-Age Specific Fertility Rate) và tổng tỷ suất sinh (TFR-Total Fertility Rate). Tại Việt Nam, các nhà quản lý thường sử dụng thêm chỉ báo chỉ tiêu tỷ lệ giảm sinh.
 
Mức sinh của thế giới năm 2011

Trong bài viết này, xin được sử dụng chỉ báo tổng tỷ suất sinh (TFR). TFR được hiểu là số con trung bình sinh ra còn sống của một phụ nữ trong suốt cuộc đời của mình nếu qua các năm sinh đẻ, họ tuân theo các tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi của một năm nhất định hoặc để đơn giản hơn, ta nói TFR là số con trung bình của một phụ nữ.

Theo “2011 World Population Data sheet” của Population Reference Bureau, TFR năm 2011 của thế giới là 2,5 con. Nếu chia theo mức độ phát triển của các nước thì TFR của nhóm nước phát triển là 1,7 con, trong khi nhóm nước kém phát triển là 4,5 con nhóm còn nước đang phát triển là 2,6-3,0 con.
 
Như vậy, khoảng cách về mức sinh giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển là rất lớn. Trong khi nhóm các nước đang và kém phát triển chưa đạt mức sinh thay thế thì đối với nhóm các nước phát triển mức sinh đã dưới mức sinh thay thế rất nhiều. Nếu chia theo khu vực địa lý thì khu vực có TFR thấp nhất là châu Âu với 1,6 con và cao nhất là châu Phi với 4,7 con.
Biểu 1: TFR thế giới và các châu lục, 2011
Nguồn: Population Reference Bureau, “2011 World population data sheet”
Bảng 1: TFR của các nước, vùng lãnh thổ thuộc khu vực Đông, Đông Nam Á, 2011(theo thứ tự TFR từ thấp đến cao)
Nguồn: Population Reference Bureau, “2011 World population data sheet”
 Bản đồ TFR thế giới năm 2011 dưới đây cho thấy màu đỏ (TFR < 2), vàng (2 < TFR <3) hầu hết ở phía trên bán cầu và dường như đang dần phủ kín khắp hành tinh chúng ta. Tuy nhiên, mức sinh cao vẫn còn rải rác tại một số quốc gia vùng Đông Nam Á, Nam Á, Trung Đông, Caribbean, Nam Mỹ và toàn bộ châu Phi, ta gọi là lục địa xanh về mức sinh.
Bản đồ TFR thế giới, 2011
Chú giải:
Nguồn: PregnantPause.org dẫn nguồn UN Department of Economic and Social Affairs, Population Division
Cũng theo “2011 World Population data sheet” thì cho đến nay, trên thế giới mới chỉ có 85 quốc gia và vùng lãnh thổ đạt được mức sinh thay thế, vẫn còn hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ chưa đạt mức sinh thay thế. Thậm chí mức sinh tại một số nước còn rất cao (TFR từ 5-7 con) như: Niger (7,0), Mali (6,4), Burundi (6,4), Somali (6,4), Uganda (6,4), Zambia (6,3) Afghanistan (6,3), Cộng hoà dân chủ Công (6,1), Chad (6,0)…

Tuy nhiên, trong số 85 quốc gia và vùng lãnh thổ đạt được mức sinh thay thế thì có tới 55 quốc gia và vùng lãnh thổ (chiếm gần 65%) có mức sinh từ 1,8 con trở xuống, có những nơi TFR rất thấp, từ 1,3 xuống đến 0,9 con như: Đài Loan (0,9), HongKong (1,1), Macao (1,1), Hàn Quốc (1,2), Singapore (1,2), Andorra (1,2), Latvia (1,3), Bosnia (1,3), Portugal (1,3), San Marino (1,3)…
 
Mức sinh thay thế là mức sinh mà một đoàn hệ phụ nữ trung bình có vừa đủ số con gái để “thay thế” mình trong dân số. Người ta thường dùng TFR trong khoảng 2,1 con để được coi là mức sinh thay thế. Sở dĩ không dùng TFR = 2,0 vì thông thường và tự nhiên, số trẻ nam sinh ra lớn hơn trẻ nữ và không phải tất cả nữ đều sống qua hết những năm sinh đẻ.
 
Nếu TFR quá thấp so với mức 2 con thì dân số đó sẽ không phát triển (không bao gồm di cư). Như vậy, những quốc gia và vùng lãnh thổ có TFR quá thấp, thậm chí chỉ còn 0,9 con thì dân số tại các quốc gia và vùng lãnh thổ đó không phát triển.
 
Cùng với sự gia tăng tuổi thọ thì dân số tại các khu vực này ngày càng già nua và quy mô dân số ngày càng thu hẹp, dẫn đến những hệ luỵ vô cùng lớn không chỉ cho dân số nói riêng mà cho cả xã hội và sự phát triển thịnh vượng của quốc gia nói chung.
 
Quá trình chuyển đổi nhân khẩu học

Để theo dõi quá trình chuyển đổi nhân khẩu học của nhân loại, các nhà nhân khẩu học trên thế giới đã chia quá trình đó thành các giai đoạn khác nhau hoặc 3, 4 hoặc 5 giai đoạn. Mặc dù có sự khác nhau về số lượng giai đoạn chuyển đổi nhưng các học thuyết đều có điểm chung về xu hướng chuyển đổi nhân khẩu học là ở thời kỳ đầu mức sinh và mức chết đều rất cao.
 
Sau đó mức chết giảm xuống nhanh chóng nhờ những cải thiện trong y tế, nước sạch và vệ sinh. Trong khi đó, mức sinh vẫn còn cao và giảm rất chậm. Đến thời kỳ cuối của quá trình chuyển đổi, mức sinh và mức chết đều giảm xuống mức rất thấp.

Biểu 2: Các giai đoạn chuyển đổi nhân khẩu học

Một điểm cần lưu ý là mặc dù mức chết, mức sinh giảm từ giai đoạn thứ ba, đặc biệt là ở mức thấp (giai đoạn 4) nhưng quy mô dân số vẫn tiếp tục tăng. Nguyên do là mức sinh từ các giai đoạn trước đó cao và quá trình chuyển đoàn hệ đã làm cho quy mô dân số vẫn tiếp tục tăng cho đến tận thời kỳ thứ 5 mới có dấu hiệu giảm.
 
Dựa vào các chỉ báo về mức sinh, mức chết của “2011 World Population Data sheet” thì dân số thế giới đang ở thời giai đoạn 3 (CBR = 20%o, CDR = 8%o). Dân số của các châu lục đang ở các thời kỳ như sau:
 
Biểu 4: Giai đoạn chuyển đổi nhân khẩu học của các châu lục, 2011
 
Các nhà khoa học cũng đặt ra câu hỏi rằng, sau giai đoạn thứ 4, khi mức sinh và mức chết giảm đến mức thấp nhất (giống như châu Âu hiện nay) thì mức sinh có tiếp tục thấp hơn nữa và còn thấp hơn cả mức chết? Điều đó đồng nghĩa với việc dân số thế giới không tăng trưởng hoặc tăng trưởng âm?
 
---
Tài liệu tham khảo:
1.East West center, “Causes and effects of low fertility in Asia, 2010”
2. Sidney B.Westley, Minja Kim Choe, Rorert D. Retherford “Very low fertility in Asia is there a problem? Can it be solved?”
3. Hans-Perter Kohler, Francesco C.Billari, José Antonio Ortega “Low fertility in Europe: Cause, Implications and Policy options”, 2006
4. Joseph Chamie, UN, “Low fertility: Can Governments make a difference?”, 2004
5. Pregnant Pause.org, “Fertility rates (children per family) world statistics”
6. People’s Daily Online “China faces the challenges of low birth rate and ageing problem”, 2011
7. Jonathan Grant, Stijn Hoorens, Suja Sivadasan, Mirjam Van het Loo, Julie Davanzo, Lauren Hale, Shawna Gibson, William Butz “Low fertility and population ageing: Causes, Consequences and policy options”, 2004
8. Peter Mc Donald, “Low fertility and policy”, Australian Demographic and Social Research Insititute.
9. Workpermit.com, “Canada faces low birth rate challenge”, 2006
10. Peter Mc Donald “Very low fertility: Consequences, Cause and Policy Approades”, 2008
11. Population Reference Bureau, “2011 World Population data sheet”
12. Dudley Kirk, Great Britain “Demographic Transition Theory”, Population studies, 1996
13. UN Economic & Social Affairs Population Division, “World Population to 2300”, 2004
14. Alexandre Avdeev, Tatiana Eremenko, Patrick Festy, Joëlle Gaymu, Nathalie Lebouteillec, Sabine Springer, “Population and Demographic trends of European countries, 1980-2010”
15. Naohiro Ogawa, Robert D. Retherford, Rikiya Matsukura, “The Emergence of Very Low Fertility in Japan: Changing Mechanisms and Policy Responses”, 2006
16. Bhakta Gubhaju, “Fertility Decline in Asia: Opportunities and Challenges”, 2006
17. Gavin W. Jones,  “Recent  fertility trends, policy responses and fertility prospects in low fertility countries of East and Southeast Asia”, Population Division, UN Expert Paper No. 2011/5
18. UN Population division, “Replacement migration: Is it a solution to declining and ageing population?”
19. Roderic Beaujot, “Effect of immigration on the Canadian population: Replacement migration”, 2003
20. Phillip Longman, “Think again: Global Aging”, Foreign policy, 2010
21. Wendell Cox and Emma Chen, “Six adults and One child: The coming baby bust”, Conversable Economist, 2012
22. China.org.cn, “Low fertility rate a serious warning to China’s population problem”, 2011
23. Ik Ki Kim, “Policy responses to low fertility and population aging in Korea”, UN Secretariat, 2000
24. Minja Kim Choe,  Robert D. Retherford, Seung-Kwon Kim “Very low fertility in South Korea: Patterns and Prospects”, 2004
25. Natalie, “Why has Taiwan’s birthrate dropped so low?”, Time World, 2009
 
(Còn tiếp)
ThS. Lương Quang Đảng
thanhloan
Bình luận
Xem thêm bình luận
Ý kiến của bạn

Qua ứng dụng S-Health, bất ngờ trước những căn bệnh người già gặp phải (kỳ 2): Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi nói riêng trong thời đại công nghệ số 4.0

Qua ứng dụng S-Health, bất ngờ trước những căn bệnh người già gặp phải (kỳ 2): Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi nói riêng trong thời đại công nghệ số 4.0

Dân số và phát triển - 2 năm trước

GiadinhNet - Thoái hóa đốt sống lưng tình trạng nặng có thể gây liệt nửa người, nhiều người bệnh rồi mà không biết rèn luyện thể lực, cũng không biết "Ứng dụng chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi (S-Health)" để được nhắc nhở, hướng dẫn, hay cấp cứu kịp thời.

Dùng thuốc trị động kinh khi mang thai, tăng nguy cơ trẻ mắc bệnh tự kỷ

Dùng thuốc trị động kinh khi mang thai, tăng nguy cơ trẻ mắc bệnh tự kỷ

Dân số và phát triển - 3 năm trước

Phụ nữ dùng thuốc trị động kinh acid valproic trong thời kỳ mang thai có nguy cơ sinh con mắc bệnh tự kỷ cao hơn gấp đôi, một nghiên cứu mới đây cho thấy.

Lộ sự thật về chứng "lên đỉnh" dồn dập ở chị em

Lộ sự thật về chứng "lên đỉnh" dồn dập ở chị em

Dân số và phát triển - 4 năm trước

Các nhà khoa học Harvard cuối cùng đã tìm ra nguyên nhân và chữa khỏi cho một số phụ nữ khổ sở bấy lâu nay vì cả trăm cơn "lên đỉnh" dồn dập mỗi ngày.

Tạo phôi thai chuột không cần trứng và tinh trùng

Tạo phôi thai chuột không cần trứng và tinh trùng

Dân số và phát triển - 4 năm trước

Các tế bào gốc này có khả năng tạo ra cả ba loại tế bào được tìm thấy trong phôi sớm.

Bao cao su đầu tiên được thiết kế để tiêu diệt virus HIV

Bao cao su đầu tiên được thiết kế để tiêu diệt virus HIV

Nghiên cứu - Trao đổi - 9 năm trước

Kết quả kiểm tra đã cho thấy bao cao su VivaGel có hiệu quả trong việc khử 99,9% virus HIV, herpes và các virus u nhú ở người.

Cho tương lai phát triển bền vững

Cho tương lai phát triển bền vững

Nghiên cứu - Trao đổi - 9 năm trước

GiadinhNet - Báo cáo số liệu Thanh niên Thế giới năm 2013 của Văn phòng Tham chiếu Dân số Hoa Kỳ (PRB) cho thấy, trên thế giới hiện nay, thanh niên (nhóm dân số từ 10-24 tuổi) là hơn 1,8 tỷ người, chiếm 25% tổng dân số thế giới.

Thử nghiệm mới giúp tăng tỉ lệ thụ tinh trong ống nghiệm thành công

Thử nghiệm mới giúp tăng tỉ lệ thụ tinh trong ống nghiệm thành công

Nghiên cứu - Trao đổi - 9 năm trước

Theo các nhà nghiên cứu từ Đại học Oxford (Anh), các tế bào sản xuất năng lượng sản sinh ra nhiều DNA trong phôi thai là một tín hiệu có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi khiến người phụ nữ được thụ tinh trong ống nghiệm nhưng không thành công.

Thêm một nguyên nhân khó thụ thai bị nhiều người bỏ qua

Thêm một nguyên nhân khó thụ thai bị nhiều người bỏ qua

Nghiên cứu - Trao đổi - 9 năm trước

Phụ nữ có lượng cholesterol cao sẽ mất nhiều thời gian để thụ thai hơn những người có lượng cholesterol bình thường.

Thuốc ngừa thai không giết chết khoái cảm tình dục

Thuốc ngừa thai không giết chết khoái cảm tình dục

Nghiên cứu - Trao đổi - 9 năm trước

Nghiên cứu mới của các nhà khoa học Anh, Scotland và Cộng hòa Czech cho thấy thuốc ngừa thai không giết chết ham muốn tình dục nhưng chính việc ngưng sử dụng thuốc có thể ảnh hưởng lên khoái cảm của người phụ nữ.

Những bí mật liên quan đến hệ thống sinh sản của phụ nữ

Những bí mật liên quan đến hệ thống sinh sản của phụ nữ

Chất lượng cuộc sống - 10 năm trước

Màng trinh là phần vô ích, tử cung có khả năng siêu đàn hồi, trong âm đạo có tính axit, không thể xác định chính xác lúc thụ thai... là những điều có thể bạn chưa biết về bộ máy sinh sản nữ giới.

Top